Mátthêu/Matthew 5:48; 10/21/15-10/28/15
Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
You therefore must be perfect, as your heavenly Father is perfect.
Trước đây, con cứ nghĩ sống hoàn thiện theo câu
Lời Chúa này có nghĩa là sống không một tì ố, sống “vô nhiễm tội”. Nhưng
mới đây, một linh mục đã giải thích cho con ý nghĩa của “hoàn thiện giống Thiên
Chúa” là “yêu thương và cùng bước đi với những người “không hoàn thiện” chung
quanh ta” (“being perfect like God means to love and walk with those around
you, who are imperfect”). Khi vị linh mục nói vậy, con nghĩ ngay tới Chúa
Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa Cha (Ga 14:9), Ngài đã chẳng ngại nhưng cùng
bước đi với thật nhiều người bất hoàn hảo, và Ngài đã đến cho tất cả những ai
bất hoàn hảo (Lc 5:32).
Con đã gẫm về sự hoàn hảo của Ngài, và so sánh
với sự bất hoàn hảo nơi con/những tội lỗi nơi con người. Con xin chia sẻ
dưới đây:
Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm
sóc anh em. (1 Pr. 5:7)
Romans 14:17-18 9/23/15-9/30/15
Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Đức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng.
Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Đức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng.
For the kingdom of God is not food and drink but righteousness
and peace and joy in the Holy Spirit. The one who thus serves
Christ is acceptable to God and has human approval.
Chúa Giêsu nói, “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho!”
(Mt 6:33) Và, 1 Côrintô 4:20 nói “Nước Thiên Chúa không
cốt ở tài ăn nói, nhưng ở quyền năng.” Lời Chúa ta gẫm tuần này nói
đến Nước của Chúa thì có 1) sự công chính, 2) bình an, 3) hoan lạc, cộng với 4)
quyền năng trong Thánh Thần.
Sao ta chẳng thấy “Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta”
vậy? Phải chăng vì ta đã sống lợi dụng, tham lam, tội lỗi, bất công,
tkhông “trả cho Ceasar những gì thuộc của Ceasar”, lòng chúng ta luôn lo ăn
mặc, xe cộ, nhà cửa, sắc đẹp, tâm chúng ta nghĩ tới những gì người khác đã xúc
phạm ta, ta nhai đi nhai lại những cay đắng, tổn thương đó, nên ta chẳng có
chút nào là “bình tâm”- làm sao mà có bình an và hoan lạc được! Chúa
Giêsu đã làm bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ, hầu hết là chỉ do Lời Ngài phán ra;
còn ta, Lời Chúa ta chẳng gẫm, Sách Thánh để đâu cũng chẳng nhớ (nhưng ta lại
kè kè cái bóp đựng tiền của ta), nên sao ta biết Chúa nói và làm cách nào để ta
noi theo.
Nào anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước
Thiên Chúa làm cơ nghiệp sao? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu
tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa
rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp. (1 Cr 6:9-10)
Ta đã sống theo 1 Côrintô 6:9-10 hay Rôma 14:17-18 và 1 Côrintô
4:20? Nếu ta nói theo hai câu sau, thì ta có dám thực tâm quả quyết cách
ta phục vụ tha nhân đã được “đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng”
không?
1. 2 Vua 13:21 8/5/15-8/12/15
Có lần người ta đang đem một người chết đi chôn, thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Êlisa, rồi bỏ đi. Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Êlisa thì sống lại và đứng thẳng dậy.Once while some Israelites were burying a man, suddenly they saw a band of raiders; so they threw the man’s body into Elisha’s tomb. When the body touched Elisha’s bones, the man came to life and stood up on his feet.
Con muốn dùng câu Lời Chúa tuần này để nhắc tới thánh tích, nơi quyền năng Thiên Chúa dùng để ban ơn cho chúng ta. Thánh tích, tiếng Anh là relic(s), được “Từ Điển Công Giáo Anh-Việt” của Nguyễn Đình Diễn giải nghĩa là: “Vật có liên quan đến một vị thánh, như hài cốt, quần áo, vật dụng hoặc bất cứ thứ gì thánh nhân đã chạm đến.”
Ngoài câu Lời Chúa trên đây, ghi lại xương của Ngôn sứ Elisa làm sống lại người chết, thì Thánh Kinh từ Cựu Ước đến Tân Ước cũng ghi lại những ân huệ Chúa ban ở các nơi khác nữa, chẳng hạn như:
- 2 Vua 2:9-14 Elisha dùng áo choàng của Êlia mà rẽ nước sông Giođan ra làm hai bên.
- Mt. 9:20-22 Người đàn bà băng huyết sờ vào tua áo Chúa Giêsu và đã được khỏi.
- CVTĐ 5:15-16 Bóng của Ông Phêrô phủ lên những người ốm đau, những người bị thần ô uế ám thì tất cả được chữa lành.
- CVTĐ 19:11-12 Khăn áo đã chạm đến da thịt của Ông Phaolô đặt trên người bệnh là bệnh tật biến đi, và tà thần đã xuất.
Người Công Giáo chúng ta tôn kính (venerate) các thánh tích, chứ không tôn thờ (worship) chúng hoặc tôn thờ vị thánh nào (kể cả Đức Mẹ). Chúng ta chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi! Các thánh tích bản chất chúng không có quyền năng gì, nhưng chúng là phương tiện/hay máng chuyển quyền năng/ân sủng của Chúa xuống trên người nhận, qua lời ta xin vị thánh đó cầu bầu. Thánh tích nhắc chúng ta nhớ tới sự thánh thiện của vị thánh đó, người đã trung tín cộng tác với chương trình của Thiên Chúa và đã sống theo đường lối thánh thiện của Ngài. Thánh tích cũng giúp thúc đẩy chúng ta kêu cầu Chúa ban ơn để ta noi gương đời sống tốt lành của các ngài.
Thánh tích có ba loại chính hay được nêu lên và tôn kính, nhưng có những người cũng trân quý loại thứ tư. Giáo Hội cấm không được mua bán thánh tích hạng nhất và hạng nhì.
- Thánh tích hạng nhất (first class relic) – thi hài hoặc một phần thi hài của vị thánh
- Thánh tích hạng nhì (second class relic) – y phục hoặc vật dụng từ các thánh; khăn niệm lưu trữ xương các thánh lâu dài
- Thánh tích hạng ba (third class relic) – đồ vật chạm đến thánh tích hạng nhất; chạm đến mồ hoặc chạm đến thi hài của vị thánh (thường thì những mẫu ảnh chúng ta mua có miếng vải tròn kèm theo là hạng ba)
- Thánh tích hạng bốn (fourth class relic) – đồ vật chạm đến thánh tích hạng nhì
Chúng ta biết Lời Chúa ghi lại cả ma quỷ và bệnh hoạn đều đi hết qua sự đụng chạm đến thánh tích, hy vọng chúng ta cũng có tấm lòng trân quý các di vật của các thánh nhân, và biết xin các Ngài cầu bầu khi được chiêm ngưỡng hay chạm đến các thánh tích của những vị đáng kính trong Giáo Hội chúng ta! Con có một vài thánh tích được tôn kính tại nhà, ai có nhu cần xin mời tới nhà con để đụng chạm tới các thánh tích hầu xin các ngài cầu bầu với Chúa chữa lành giải thoát cho ta.
2 Timothê/Timothy 4:7-8 7/1/15-7/8/15
Tôi đã đấu trong
cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây
tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí
công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi,
nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.
I have fought the
good fight, I have finished the race, I have kept the faith. Henceforth
there is laid up for me the crown of righteousness, which the Lord, the
righteous judge, will award to me on that Day, and not only to me but also to
all who have loved his appearing.
Nếu chết bây giờ, thì ta có chắc chắn sẽ được vào Thiên Đàng ngay không? Nếu ta thực sự sống kết hợp với Chúa Kitô như Thánh Phaolô, “tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi,” (Galát 3:20), thì tất nhiên là lòng ta trong sạch và ta sẽ nhận ra đâu là ý Chúa để biết được ta sẽ về đâu. Thánh Phaolô đã hết mình vì Chúa trong công việc rao giảng Tin Mừng, và đã chịu biết bao sự khó vì Nước Trời. Chúng ta hãy coi lại một số điều Thánh Phaolô đã trải qua được ghi lại ở 2 Corintô 11:24-29 nhé:
5 lần bị người Do-thái đánh 40 roi bớt một
3 lần bị đánh đòn
1 lần bị ném đá
3 lần bị đắm tàu
1 đêm 1 ngày lênh đênh giữa biển khơi
phải thực hiện nhiều cuộc hành trình
gặp bao nguy hiểm:
trên sông
do trộm cướp
do đồng bào
vì dân ngoại
1.
2
Côrintô/Corinthians 8:14 6/10/15-6/17/15
Trong hoàn cảnh
hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng
thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh
túng thiếu, như thế, sẽ có sự đồng đều.
At this present
time your abundance being a supply for their need, so that their abundance also
may become a supply for your need, that there may be equality.
Lời Chúa nói
“không phải Ngài bắt ta sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ, nhưng cần
thiết là phải có sự đồng đều” (2 Cr 8:13). Ta cho, Chúa sẽ cho thêm, và
ban phúc lộc dồi dào tới đời con cháu. Một cô kể rằng bà ngoại của cô đã
làm phúc, giúp cả một làng, nhưng gia đình con cháu không biết gì hết cho tới
khi đám tang của bà những người đó mới xuất hiện, kể ra điều phúc đức bà đã
làm. Cô ấy cũng theo gót của bà, hay giúp người; khi gặp khó khăn, cô luôn
được có người cho tiền hay giúp đúng lúc. Con cháu cô làm ăn nên và ra
đời cũng được người khác cố vấn, giúp đỡ. Chính bản thân con cũng vậy, hồi độc
thân, lúc con đi làm part time, con giữ đủ tiền chi phí hằng ngày, còn lại con
xin lễ cho các linh hồn hết. Sau khi lấy chồng, nghỉ việc, dọn về San
Diego không có tiền/việc, tự nhiên có người giúp cho con tiền đi học nghề mới,
và cho con có công việc làm; khi chồng con thất nghiệp lo không đủ tiền chi
tiêu, thì lại được người đó cho thêm để trả tiền nhà.
Thiên Chúa thật
không quên lời nói của Ngài rằng mỗi lần ta làm phước cho một trong những anh
em bé nhỏ nhất của Ngài, là ta đã làm cho chính Ngài vậy (Mt 25:40). Lời
hứa của Ngài là “Người hào phóng lại được thêm giàu có, kẻ hà tiện lại lâm cảnh
túng nghèo. Người rộng lượng được phương phi béo tốt, chính kẻ cho uống
lại được uống thoả thuê.” (Cn 11:24-25) Khi ta “Thương xót kẻ khó nghèo là cho
Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng việc đã làm.” (Cn 19:17) Và Ngài nói,
“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu
đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em.” (Lc 6:38)
Con thấy rằng
khi con làm full time, có việc tốt, tiền nhiều hơn thuở độc thân thì con lại
cho ít đi, tích trữ nhiều hơn, không dễ như thuở trước để cho những gì mình có
đó. “Tôi phải lo cho gia đình tôi trước đã, xong rồi còn dư tôi mới giúp
được.” Con nghe có người nói câu này thấy cũng có lý, nên gẫm về nó, và
hỏi Chúa là như vậy được không? Và đây là điều con có được khi suy gẫm,
chẳng biết có phải từ Chúa không, nhưng con xin chia sẻ nhé. Khi con hỏi
Chúa thì trong tư tưởng thấy hình ảnh một gia đình đang ăn cơm chung, có người
nghèo đói tới xin miếng cơm, nhưng chủ nhà nói, để gia đình ăn xong đã, còn cơm
thừa thì mới cho người nghèo đói này. Rồi một tư tưởng lại tới là có anh
chàng muốn đi tu, nhưng giờ sẽ chưa đi vì còn phải chăm sóc cha mẹ tới khi chết
mới thôi. Và rồi con nghe trong đầu con có câu hỏi là con muốn cho người
khác cơm thừa cơm nguội của con, hay con muốn chia sớt với họ chén cơm nóng
ngon bằng cách bớt ăn lại một chút? Cho người, cho Chúa, lắm lúc phải có
hy sinh...hy sinh tiền, hy sinh thời giờ, hy sinh sự nghỉ ngơi, hy sinh thời
gian với gia đình, v.v! Nhưng hy sinh mấy cũng chẳng bằng Đấng đã vì ta
cho luôn Con Một Ngài, và đã vì ta cho hết hơi thở, giọt máu cuối cùng!
Con xin Chúa ban cho con có lại được sự rộng lượng của thuở độc thân, hầu để có
thể vui vẻ, dễ dàng giúp người khác hơn.
Xin Chúa giúp
con có tâm hồn quảng đại của Chúa, để con cho người, dâng Chúa những gì tốt
lành mình có, chứ không chỉ cho đi của dư, của thừa mà thôi. Amen.
1. 1 Côrintô/1
Corinthians 14:5 5/20/15-5/27/15
Tôi muốn cho tất
cả anh em nói các tiếng lạ, và nhất là tôi muốn cho anh em nói tiên tri. Người
nói tiên tri thì cao trọng hơn người nói các tiếng lạ, trừ phi người này giải
thích để xây dựng Hội Thánh.
I would like all
of you to speak in tongues, but even more to prophesy. One who prophesies is
greater than one who speaks in tongues, unless someone interprets, so that the
church may be built up.
Tại sao Phaolô
lại muốn chúng ta xin ơn tiên tri hơn là ơn tiếng lạ?
Vì ơn tiên tri
thì xây dựng Hội Thánh, nó cho cộng đồng, còn tiếng lạ thì chỉ cho cá nhân,
nhưng nó rất cần. Xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô là chính - làm trọn
điều Chúa dạy là “yêu thương anh em”. Ví dụ, một người thông hiểu giáo lý
Chúa nhưng không dạy con cái, không phục vụ hoặc giúp người khác biết về Chúa
thì đâu có tốt mấy, vì người ấy không giúp phần xây dựng Giáo Hội Chúa.
Con muốn chia sẻ
với mọi người một phần từ những ghi chép của con về đặc sủng tiếng lạ dưới đây,
hy vọng sẽ giúp chúng ta để tâm hơn tới tiếng lạ. Trong bài hát “Old Time
Religion” có câu con thích “It was good for Paul and Silas, it's good enough
for me”, mà con muốn mượn để dựa vào đó nói rằng “nếu tiếng lạ tốt cho Thánh
Phaolô, thì nó cũng tốt cho con/chúng ta.”
Đặc sủng tiếng lạ
là gì?
1. đặc sủng
tiếng lạ là ơn/món quà Chúa ban (không phải vì ta tốt hay ngoan mà được), để:
cầu nguyện hoặc nói một ngôn ngữ mà chính người nói không hiểu
2. nó là
dấu chỉ bề ngoài rằng lời Chúa Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần (CTT) được thực
hiện
3. là một
trong 5 dấu lạ cho những ai có lòng tin, như được nhắc tới trong tin Mừng Máccô
16:17-18 (sẽ (1) trừ được quỷ, sẽ (2) nói được những tiếng mới lạ, (3) cầm được
rắn, và (4) dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và (5) nếu họ đặt
tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.
4. khi ta
nói một ngôn ngữ mà mình hiểu thì ta dùng 3 năng lực: ý chí (will), năng lực
hiểu biết (intellect), và năng lực nói (speech) - thanh quản, môi, lưỡi, v.v.,
nhưng khi ta dùng tiếng lạ thì ta chỉ dùng (i) ý chí và (ii) năng lực nói thôi
5. mọi
người đã được rửa tội có thể có được đặc sủng tiếng lạ
6. có hai
cách áp dụng ơn tiếng lạ: cầu nguyện/hát và nói tiếng lạ
Cầu nguyện/hát
tiếng lạ & lý do/lợi ích
1. là ơn cá
nhân dành riêng để chúng ta sử dụng cho việc xây dựng bản thân mình (1 Cor
14:4), giúp ta lớn lên trong đời sống tâm linh 1 Cor 14:4 (Kẻ nói tiếng lạ thì
tự xây dựng chính mình; người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh.)
2. cầu
nguyện tiếng lạ giúp ta cầu theo thánh ý Thiên Chúa, để ta cầu nguyện với Thiên
Chúa bằng chính Thần Khí của Ngài, bằng chính CTT cầu nguyện qua ta, như được
nhắc tới ở Rôma 8:26-27 (Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ
yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần
Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.27 Và
Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu
thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.)
3. chúng ta
nói với Chúa và nói những điều nhiệm mầu 1 Cor 14:2 (Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ
thì không nói với người ta, nhưng là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu
được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy nói ra những điều nhiệm mầu.)
4. tiếng lạ
là sự biểu hiện rõ rệt CTT đang làm việc nơi ta, để ý thức được Ngài đang ngự
trị trong ta (1 Cor 6:19 – thân xác là đền thờ CTT)
5. là dấu
bề ngoài của người đã được phép dìm trong CTT, nó thường bắt đầu khi một người
mới bước vào cuộc sống thật sự với CTT
6. là cách
cầu nguyện dễ nhất vì không cần dùng đến lý trí vì khi cầu/hát tiếng lạ thì tâm
trí/ký ức không hoạt động
7. bỏ đi
ngôn ngữ thường dùng, trở nên như trẻ nhỏ - cầu nguyện bằng trái tim chứ không
phải bằng lý trí
8. thường dùng
để chúc tụng và tạ ơn
9. càng cầu
nhiều thì tiếng lạ càng dễ đổi qua thành bài hát
10. là một
cách thờ phượng và chúc tụng Chúa mà có thể giúp chúng ta cảm nhận hơn sự gắn
bó của ta và sự hiện diện của Chúa
11. giúp ta
cầu nguyện luôn (1 Thes 5:17 cầu nguyện luôn mãi) - cầu riết rồi cũng hết lời
vì ngôn ngữ có giới hạn, nên tiếng lạ giúp ta cầu nguyện luôn
12. giúp ta
cầu nguyện tha thiết hơn
13. giúp ta
mở lòng để nói chuyện với Chúa dễ dàng hơn
14. giúp ta
khao khát đến với các bí tích của Giáo Hội hơn
15. để cầu
thay nguyện giúp – không biết người đó cầu điều gì, hoặc có điều khó nói
16. để lòng
tràn đầy bình an – khi gặp khó khăn, mất bình an thì cầu bằng tiếng lạ
17. vũ khí
rất hiệu lực chống lại satan, khi bị cám dỗ với những tư tưởng hận thù, không
trong sạch, thiếu yêu thương, v.v.
18. cửa mở
tới các đặc sủng khác, cho ta có thêm năng lực của CTT: nhận được sự chữa lành
dễ hơn, lời tiên tri/trí tri/khôn ngoan, v.v., dễ tới hơn
19. mọi
người có thể có được ơn này, qua sự giúp đỡ của những người đã vững qua lời
mồi/chuyển giao (yielding words)
20. mới
được ơn cầu nguyện tiếng lạ thì được ít chữ, lập đi lập lại nhiều lần, thường
là những lời tạ ơn
21. tự
nhiên lời không tuôn ra khỏi miệng ta, cần có ta cộng tác bằng cách mở miệng
phát âm
22. không cần
ơn giải thích tiếng lạ khi cầu nguyện hay hát tiếng lạ
23. có lúc
Chúa cho cả nhóm hát tiếng lạ và âm thanh hòa đồng với nhau, và người ta cũng
ngưng cùng một lúc – nhóm hiệp nhất thì tiếng lạ như một ban nhạc hòa tấu, có
trầm có bổng, có âm thanh khác nhau, nhưng phát ra một bài nhạc hay
Nói tiếng lạ &
lý do/lợi ích
1. không
cho hết mọi người - Chúa ban ơn này khi nào Chúa muốn dùng ta; thường sẽ có
người được ơn giải thích tiếng lạ sau đó
2. để xây
dựng Giáo Hội
3. ơn nói
tiếng lạ khơi dậy đặc sủng giải thích tiếng lạ - nói tiếng lạ giúp mở ra điều
Chúa muốn nói với dân Chúa qua ơn diễn giải tiếng lạ hoặc ơn tiên tri
4. ơn nói
tiếng lạ khơi dậy sự mong đợi thông điệp của Chúa, nhiều khi chúng ta không
biết rằng Chúa đã cho lời tiên tri rồi
5. khi có
người nói tiếng lạ thì người đang nói và những người khác nên xin để được ơn
giải thích tiếng lạ
6. tương
đương với ơn tiên tri khi được giải thích - để xây dựng, khích lệ, an ủi
7. thường
thì người được ơn này đã vững/trưởng thành trong Chúa Thánh Thần; nhưng đường
hướng Chúa không ai hiểu được, có thể cho người vừa được “nhận chìm/gìm trong
CTT” đặc sủng này
8. có thể
làm cho người ta hoang mang nếu không dùng đúng, ví dụ: tiếng lạ chúc tụng
tưởng rằng nói tiếng lạ
9. cần được
dùng trong trật tự – không nên nói tiếng lạ khi đang hát, đang đọc/chia sẻ Lời
Chúa, hay khi có người đang nói
10. ơn
tiếng lạ không phải từ Thiên Chúa thì (a) lộn xộn, (b) thiếu trật tự, (c) phát
ra không đúng lúc, (d) mạnh mẽ và (e) gây chia trí cho nhiều người; có lắm khi
phát xuất từ ma qủy.
1. Rôma/Romans 8:26-27 5/13/15-5/20/15
Hơn nữa, lại có
Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu
nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta,
bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết
Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng
ý Thiên Chúa.
Likewise the
Spirit helps us in our weakness; for we do not know how to pray as we ought,
but that very Spirit intercedes with sighs too deep for words. And God,
who searches the heart, knows what is the mind of the Spirit, because the
Spirit intercedes for the saints according to the will of God.
Có những lúc ta
vui sướng, ta buột ra những tiếng “a a a…”, “ô ô ô…” chẳng có nghĩa gì cả,
nhưng người đứng gần bên trông thấy và nhận ra ngay được niềm vui ta tràn đầy
thế nào. Cũng như những lúc ta khóc nức nở, thì tiếng rên của ta làm
người nghe cũng cảm nhận được phần nào nỗi xót ruột của ta. Ta ở gần con
người, nên phần nào cũng biết được ý người; và nếu ta ở gần một con thú ta
nuôi, ta cũng sẽ biết nó muốn gì khi nó cựa quậy, kêu rên, dù ta chẳng biết
ngôn ngữ của con thú đó.
Chúa Thánh Thần
của chúng ta ở ngay cung lòng Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa, tất nhiên Ngài
biết bản thân Ngài nghĩ gì rồi! Và, Ngài cũng ở ngay cung lòng ta, nên
Ngài cũng biết tâm tư ta. Vậy, sao ta lại không dùng chính ngôn ngữ của
Ngài nói với Ngài nhỉ? Ta thích và luôn nói ngôn ngữ của ta, nhưng sao ta
không làm Chúa vui mà có những lúc dung tiếng lạ, nói ngôn ngữ của Ngài
chứ? Lấy đâu ra đủ lời tốt lành mà tán dương Đấng Cực Thánh? Theo
con nghĩ, chỉ có lời Ngài linh ứng mới đủ để làm thỏa tâm tư của Ngài.
Timothy muốn mẹ mua cho con chim canary, và mẹ dạy bé nói: “Mẹ ơi con muốn con
chim hoàng oanh.” Bé lập lại điều con dạy bé nói, dù bé không hiểu gì cả,
nhưng con rất vui khi nghe con trai mình lập lại lời con dạy đó; tất nhiên là
con mua hoàng oanh cho bé rồi, không những một, mà là hai con. Ái nghe
John nói tiếng Anh suốt ngày, giờ mà nghe anh ấy nói được một câu tiếng Việt
(dù lập lại như con vẹt), tự nhiên lòng Ái cũng sẽ vui hẳn ra. Phải chăng
Chúa của chúng ta cũng vui khi ta lập lại ngôn ngữ của Ngài – khi ta vâng theo
ý Ngài. Nếu tiếng lạ không quan trọng thì Thánh Phaolô đã chẳng dành cả
một chương 1 Côrintô 14 mà nói về “ngôn ngữ của Thánh Thần” này. Nếu ta
nghĩ “tình yêu” là quan trọng, thì thật đúng, Thánh Phaolô đã dùng một chương 1
Côrintô 13 để nói về nó. Còn tiếng lạ ở ngay chương sau đó thì có quan
trọng không? Con mời mọi người đi hỏi Chúa Thánh Thần về vấn đề này
nhé!
Lời Chúa ở 1
Côrintô 14:2 nói “Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ thì không nói với người ta, nhưng
là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy nói ra
những điều nhiệm mầu.” Thật là những lời nhiệm mầu và thấu suốt tâm
tư! Con chia sẻ câu chuyện dưới đây về kinh nghiệm của con với tiếng lạ
để thấy Chúa vạch ra tâm tư một người qua tiếng lạ.
Có một chú tới
nhờ con cầu nguyện hồi con ở Orange County. Con hỏi cầu về ý chỉ gì thì
chú nói cầu cho thể xác. Con chỉ biết đặt tay lên chú và cầu bằng tiếng
lạ. Khi cầu nguyện, con cảm nhận là chú cần cầu nguyện về tinh thần, con
nêu lên với chú và chú ấy đã gật đầu. Mỗi lần con cảm nhận và hỏi chú đều
gật đầu. Con hỏi tinh thần của cá nhân chú hay liên quan tới người
khác? Chú nói liên quan đến con cái – con cái làm chú buồn lòng.
Con tiếp tục cầu tiếng lạ và thấy hình ảnh ngày chú đeo nhẫn cưới cho vợ, nên
thưa với chú rằng con cảm thấy không phải con cái mà là vợ làm chú buồn rầu,
chú ấy đã gật đầu. Con càng cầu tiếng lạ thì âm thanh nghe thật ai oán,
và lòng con lúc ấy thấy quá buồn, đến độ con đang quỳ đã khuỵ xuống. Rồi
Chúa cho con giải thích tiếng lạ “nam mô a di đà, nam mô a di đà...” Con
thấy lạ quá nên thưa với Chúa rằng con đang chúc tụng Chúa, chứ đâu có tụng
Phật mà ra âm thanh kỳ vậy. Như thế nghĩa là gì? Chúa soi vào lòng
con rằng chuyện làm chú ấy và Chúa buồn có liên quan tới Phật. Con nói
những điều này với chú và chú đã gật đầu đồng ý. Khi cầu nguyện xong thì
con được nghe biết chuyện rằng chú này lấy cô vợ đạo Phật, nhưng khi cưới cô
theo đạo Công Giáo. Sau đó cô lại trở về theo Phật. Cô vợ bị bệnh
liệt giường, nhờ nhóm CTĐS tới cầu nguyện, cô đã đi lại được.
Nhưng sau khi
lành bệnh, cô lại trở về theo Phật nữa, thế là lại liệt giường tiếp.
Những người CTĐS nói nếu cô không bỏ Phật để thật sự theo Chúa thì có cầu cũng
vô ích, và họ đã không tiếp tục. Cô vợ và mẹ vợ đã rước thầy về ở trong
nhà thường xuyên tụng Phật, “nam mô a di đà…”, trong nhà. Cho nên, điều
này đã làm chú kia và Chúa rất buồn.
Thưa các cô chú
bác, anh chị, nếu không cầu tiếng lạ, chắc có lẽ con đã không biết rõ nỗi lòng
chú kia mà cầu nguyện cho điều chú ấy thực sự cần. Chúa của chúng ta
thích chữa trước là tâm linh, sau đến tinh thần tình cảm, rồi mới đến thể xác –
vì những điều nêu trước quan trọng hơn cho đời sống chúng ta. Chúa đã
muốn chữa lành chú và cô vợ về vấn đề tâm linh và tình cảm trước khi chữa lành
thể xác. Tiếng lạ quan trọng lắm và cần nhiều thời gian chia sẻ. Con nêu
lên câu chuyện trên mong sao mọi người sẽ thấy được rằng nếu ta để Thánh Thần
Chúa hướng dẫn, thì ta sẽ “bắt được đúng đài” và sẽ cầu theo đúng ý nhân lành,
hoàn hảo của Thiên Chúa chúng ta.
Cầu chúc mọi
người được tăng trưởng trong đặc sủng tiếng lạ, được có những ngôn ngữ mới, và
những bài “thánh ca do Thần Khí linh hứng” (Êphêsô 5:19) mới, để tôn vinh Thiên
Chúa là Cha chúng ta!
Mátthêu/Matthew
18:32-33; 4/29/15-5/6/15
Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?
You wicked slave! I forgave you all that debt because you pleaded with me. Should you not have had mercy on your fellow slave, as I had mercy on you?
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Luca 23:34). Chúa cầu, Chúa tha thế đấy – tha khi thân xác rã rời, tha khi thân xác hết hơi, hết máu, còn ta thì sao?
Con chứng kiến khi cầu nguyện chữa lành nhiều người được hỏi có sẵn sàng tha thứ cho hết những ai đã làm tổn thương họ, từ nhỏ đến hiện giờ, thì hầu như ai cũng nói sẵn sàng, nhưng khi người đó mắt thấy hay cầu nguyện cho một người khác có hoàn cảnh tương tự mình từng trải thì than ôi, sao nó khó tha làm vậy! Tim họ thắt lại, thở không ra hơi, và giận lắm, giận tới muốn đánh, muốn chửi, muốn rủa người đã làm tổn thương mình. Mà cái oái ăm là người làm mình tổn thương lại là người thân nhất của mình, như cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, v.v. mới khó chứ! Nói tha thì dễ, còn làm lại khó!
Theo con, sự không tha thứ như một viên đạn nằm yên ở trong thân xác ta, không đụng trúng chỗ nó đâu có đau, nhưng nhấn đúng nơi thì thật là nhói ơi là nhói. Vậy, ta hãy can đảm cho phép Chúa mổ xẻ ta ra, để Ngài lấy nguồn gốc của vết nhói, sau đó ta không bao giờ còn đau nữa. Nhưng con xin nhắc nhé, khi đang trên bàn mổ thì sẽ có những “bầy hầy”, khó chịu hơn trước khi ta được mổ ra đó, và ta chắc sẽ la ó, và nói “thà đừng đụng tới, cứ để vậy thì hơn”. Vì thế, ta nên xin ơn thánh trợ giúp trong lúc Chúa “giải phẫu” cho ta.
Con xin đề nghị rằng mỗi người chúng ta nên đi ngược lại cuộc đời từ khi có trí khôn và dừng lại những nơi mình bị tổn thương hay bị ức hiếp nặng, và luôn xin ơn can đảm của Chúa để đối diện vấn đề đó, hầu ta nhìn rõ lòng ta coi có còn hận thù, không tha thứ, hay/và tổn thương từ những thảm cảnh đó không. Nếu còn, ta hãy xin ơn Chúa giúp ta tha thứ cho người đã xúc phạm tới ta, xin Chúa chữa lành ta, và đổ đầy trên ta hồng ân ngược lại sự đau thương đó, hầu ta được hoàn toàn chữa lành. Và, xin Chúa tẩy luôn ký ức đau buồn đó bằng Máu Thánh Ngài, để “bộ phim xấu” đó không còn chiếu lại trong trí ta nữa mà làm ta đau nhói, khóc than một lần nữa. Một cách để biết mình đã không còn giận hờn và tổn thương là khi nghĩ tới điều đau khổ đó, ta thấy bình thường như nhìn vào vết sẹo nơi viên đạn đã từng được mổ xẻ, lấy ra khi nào. Quên không có nghĩa đã tha, nên ta hẵy đo lường cho biết.
Tha thứ là một ân huệ Chúa ban! Ta cần van nài Ngài ban cho ta ơn này. Không có Ngài, ta chẳng tha được đâu (Gioan 15:5)…dù là sự xúc phạm nhỏ nhoi nhất!
No comments:
Post a Comment